The White Stripes (Sọc trắng): Tiểu sử của nhóm

The White Stripes là một ban nhạc rock người Mỹ được thành lập vào năm 1997 tại Detroit, Michigan. Nguồn gốc của nhóm là Jack White (nghệ sĩ guitar, nghệ sĩ piano và ca sĩ), cũng như Meg White (tay trống-bộ gõ).

quảng cáo

Bộ đôi này đã thực sự nổi tiếng sau khi họ trình bày ca khúc Seven Nation Army. Bài hát được trình bày là một hiện tượng có thật. Mặc dù đã hơn 15 năm trôi qua kể từ khi sáng tác được phát hành nhưng ca khúc vẫn được người yêu âm nhạc và người hâm mộ yêu thích.

Âm nhạc của ban nhạc Mỹ là sự pha trộn giữa garage rock và blues. Nhóm đã gây ấn tượng với thiết kế mang tính thẩm mỹ với tông màu đơn giản là trắng, đỏ và đen. Một loạt các sắc thái tương tự được sử dụng trong hầu hết các album của The White Stripes.

Nếu chúng ta nói về The White Stripes bằng những con số, thì thông tin này sẽ như sau:

  • 6 album phòng thu;
  • 1 album trực tiếp;
  • 2 tấm nhỏ;
  • 26 đĩa đơn;
  • 14 MV ca nhạc;
  • 1 DVD ghi âm buổi hòa nhạc.

Ba tuyển tập cuối cùng đã được trao giải Grammy danh giá ở hạng mục “Album thay thế hay nhất”. Và mặc dù bộ đôi này đã tuyên bố chia tay vào năm 2011, nhưng các nhạc sĩ đã để lại cho người hâm mộ một di sản xứng đáng.

The White Stripes (Sọc trắng): Tiểu sử của nhóm
The White Stripes (Sọc trắng): Tiểu sử của nhóm

Lịch sử hình thành The White Stripes

Lịch sử thành lập ban nhạc rock đầy lãng mạn. Một ngày nọ tại nhà hàng Memphis Smoke, Jack Gillis gặp cô hầu bàn Meg White. Cặp đôi có chung sở thích âm nhạc. Họ tìm hiểu nhau qua lăng kính âm nhạc, tham dự các buổi hòa nhạc, lễ hội và thưởng thức các bài hát của nghệ sĩ nhạc rock yêu thích của họ.

Nhân tiện, vào thời điểm Jack gặp cô gái, anh ấy đã có kinh nghiệm làm việc trên sân khấu. Anh chàng là thành viên của ban nhạc punk “gara” - Goober & the Peas, The Go và The Hentchmen.

Vào ngày 21 tháng 1996 năm 1997, đôi tình nhân chính thức hợp pháp hóa mối quan hệ của họ. Jack, trái với những quy tắc được chấp nhận chung, quyết định lấy họ của vợ mình. Megan muốn học chơi trống. Năm XNUMX, cô mài giũa kỹ năng của mình lên mức chuyên nghiệp.

Những nỗ lực lấp đầy âm nhạc của vợ anh đã thúc đẩy Jack quyết định tạo ra dự án của riêng mình. Ban đầu, các nhạc sĩ biểu diễn dưới cái tên Bazooka và Soda Powder. Sau đó, họ quyết định đổi bút danh sáng tạo của mình thành The White Stripes.

Jack và Megan ngay lập tức thiết lập những quy tắc chung:

  • tránh những câu hỏi về cuộc sống cá nhân của bạn;
  • giả làm anh chị em ở nơi công cộng;
  • Thiết kế bìa đĩa và hàng hóa có thể có phải được thực hiện với màu đen, đỏ và trắng.

Buổi diễn tập của bản song ca diễn ra trong gara. Jack đảm nhận vị trí hát chính, đồng thời chơi guitar và keyboard. Megan chơi nhạc cụ gõ và đôi khi đóng vai trò là ca sĩ đệm. Buổi biểu diễn đầu tiên của White Stripes diễn ra tại Gold Dollar ở Detroit, Michigan. Sự kiện này diễn ra vào tháng 1997 năm XNUMX.

Một năm sau, chủ hãng đĩa độc lập Italy Records, Dave Buick, muốn nói chuyện với các nhạc sĩ. Anh ấy làm việc độc quyền với những người chơi chữ trong ga-ra và tạo ấn tượng về một chuyên gia trong lĩnh vực của mình. Dave đã mời bộ đôi thu âm một đĩa đơn tại phòng thu của anh ấy. Các nhạc sĩ đồng ý.

Âm nhạc của The White Stripes

Năm 1998, các nhạc sĩ của The White Stripes đã giới thiệu đến những người hâm mộ dòng nhạc nặng nề đĩa đơn đầu tay Let's Shake Hands. Ngay sau đó đã có buổi giới thiệu đĩa vinyl với ca khúc Lafayette Blues. Điều này đủ để thu hút sự chú ý của một công ty lớn ở California, Sympathy for the Record Industry.

The White Stripes (Sọc trắng): Tiểu sử của nhóm
The White Stripes (Sọc trắng): Tiểu sử của nhóm

Một năm sau, đĩa hát của ban nhạc được bổ sung bằng album đầu tay. Bộ sưu tập có tên là The White Stripes. Điều thú vị là đĩa hát này được dành tặng cho Son House, một nghệ sĩ blues có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành gu âm nhạc của Jack White.

Tác phẩm âm nhạc của Cannon bao gồm một bản ghi âm cappella của House, cũng như một đoạn trích nhỏ trong phúc âm John the Revelator của ông. Album phòng thu thứ hai của De Stijl bao gồm bản cover của bài hát Death Letter. 

Nhìn chung, album đầu tay được cả giới phê bình âm nhạc và người hâm mộ đón nhận nồng nhiệt. Vì vậy, nhóm đã trở nên nổi tiếng bên ngoài Detroit quê hương của họ. Cổng thông tin All Music đã viết rằng “Giọng hát của Jack White rất độc đáo. Đối với những người yêu âm nhạc, anh gợi lên sự kết hợp giữa âm thanh punk, metal, blues và tỉnh lẻ.

Bộ đôi cũng rất vui mừng với công việc đã hoàn thành. Các nhạc sĩ lưu ý rằng album đầu tay là kỷ lục mạnh mẽ nhất trong lịch sử âm nhạc của quê hương họ.

John Peel, người từng là một trong những DJ có ảnh hưởng nhất ở BBC, không đánh giá cao các sáng tác của The White Stripes mà đánh giá cao thiết kế bìa. Album có hình ảnh của Megan và Jack trên phông nền những bức tường màu đỏ như máu. Nhưng tất nhiên, Peele không thể rời khỏi bản song ca mà không có những lời khen ngợi. Nhờ quan điểm có thẩm quyền của John về sự sáng tạo, nhóm càng trở nên nổi tiếng hơn ở Anh.

Giới thiệu album phòng thu thứ hai

Vào những năm 2000, danh sách đĩa hát của The White Stripes được mở rộng với album phòng thu thứ hai De Stijl. Điều đáng chú ý là bộ sưu tập được coi là tác phẩm kinh điển của garage rock. Bìa album chính là ví dụ điển hình cho sự sáng tạo của những tín đồ của “De Stijl” (nền trừu tượng được tạo thành từ những hình chữ nhật, được sơn màu sắc yêu thích của bộ đôi).

 De Stijl là một hiệp hội nghệ sĩ được thành lập tại Leiden vào năm 1917. Sự liên kết này dựa trên khái niệm chủ nghĩa tân tạo, được phát triển bởi nghệ sĩ Peter Cornelis Mondrian.

Sau này, các nhạc sĩ thừa nhận rằng khi nghĩ ra hình ảnh, nguồn cảm hứng cho họ chính là các tác phẩm của những người theo De Stijl. Giống như album đầu tiên, De Stijl có sự cống hiến, lần này là cho kiến ​​trúc sư Gerrit Rietveld của De Stijl và nghệ sĩ blues William Samuel McTell.

Vài năm sau, tuyển tập thứ hai chiếm vị trí thứ 38 trên bảng xếp hạng đĩa hát độc lập theo Tạp chí Billboard. Điều thú vị là tác phẩm Apple Blossom đã được giới thiệu trong bộ phim hành động The Hateful Eight của Quentin Tarantino.

Buổi giới thiệu album thứ ba

Năm 2001, các nhạc sĩ trình bày album tiếp theo của họ. Bộ sưu tập mới có tên là Bạch cầu. Sau khi giới thiệu album thứ ba, ban nhạc đã có được sự nổi tiếng được chờ đợi từ lâu.

Bìa của đĩa hát, theo truyền thống được làm bằng ba màu, mô tả các nhạc sĩ được bao quanh bởi các tay săn ảnh. Đây là sự châm biếm. Đây chính xác là cách cặp đôi nhận thấy sự nổi tiếng của họ vào thời điểm này.

Album mới chiếm vị trí thứ 61 trên Billboard 200 và nhận được giải vàng. Đĩa hát đã bán được hơn 500 nghìn bản. Ở Anh, bộ sưu tập được trao vị trí thứ 55. Đối với ca khúc Fell in Love with a Girl, các nhạc sĩ đã quay một video clip tươi sáng theo phong cách Lego. Tác phẩm đã nhận được ba giải thưởng Video âm nhạc của MTV vào năm 2002.

Cũng trong khoảng thời gian đó, “người hâm mộ” đã xem bộ phim “Không ai biết cách nói chuyện với trẻ em”. Bộ phim được quay trong bốn ngày khi The White Stripes ở New York.

Trình bày bản thu âm hay nhất những năm 2000

Năm 2003, đĩa hát của ban nhạc được bổ sung bằng một album mới. Chúng ta đang nói về kỷ lục của Voi. Một năm sau, bộ sưu tập đã được trao giải Grammy danh giá ở hạng mục Album thay thế hay nhất. Album mới đứng đầu bảng xếp hạng quốc gia Anh và chiếm vị trí thứ 200 danh dự trên bảng xếp hạng Billboard 2.

The White Stripes (Sọc trắng): Tiểu sử của nhóm
The White Stripes (Sọc trắng): Tiểu sử của nhóm

Thẻ gọi của ban nhạc là ca khúc Quân đội bảy quốc gia. Bài hát được coi là một sáng tác nổi tiếng của những năm 2000. Nhân tiện, bài hát này vẫn còn phổ biến cho đến ngày nay. Các phiên bản bìa được ghi lại trên đó, nó có thể được nghe tại Thế vận hội thể thao, trong các cuộc biểu tình chính trị.

Bài hát Thất Quốc Quân nói về câu chuyện khó khăn của một người đàn ông bị bao vây bởi tin đồn. Một người nghe thấy những gì được nói sau lưng mình. Anh trở thành một kẻ bị ruồng bỏ, nhưng chết vì cô đơn, anh trở về với mọi người.

Sáng tác The Hardest Button to Button được coi là một ca khúc nổi tiếng không kém trong album nói trên. Nó đạt vị trí thứ 23 trên bảng xếp hạng quốc gia Vương quốc Anh. Tác phẩm kể về câu chuyện khó khăn của một đứa trẻ lớn lên trong một gia đình rối loạn. Anh ấy đang cố gắng tìm lại chính mình. Và bài hát Balland Biscuit có thể được nghe trong nhạc nền của bộ phim truyền hình Peaky Blinders.

Năm 2005, đĩa hát của ban nhạc được bổ sung thêm một tuyển tập khác, Get Behind Me Satan. Album được tổ chức ở mức cao nhất. Cô đã nhận được giải Grammy danh giá cho Bản thu âm thay thế hay nhất.

Tuy nhiên, tuyển tập Icky Thump được coi là album thành công nhất trong đĩa hát của The White Stripes. Album được giới thiệu tới người hâm mộ vào năm 2007.

Icky Thump ra mắt ở vị trí số 1 tại Anh và vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Billboard 200. Nhờ việc phát hành đĩa hát, bộ đôi đã giành được giải Grammy cho Album Alternative xuất sắc nhất lần thứ ba trong đời.

Sau khi giới thiệu album phòng thu, bộ đôi đã đi lưu diễn. Theo Ben Blackwell, cháu trai của Jack White, trước buổi biểu diễn cuối cùng của họ ở Mississippi, Megan đã nói: "The White Stripes đang biểu diễn lần cuối cùng." Sau đó, anh chàng hỏi liệu cô ấy có ý kết thúc chuyến lưu diễn không: “Không, đây là lần xuất hiện cuối cùng trên sân khấu.” Lời nói của cô hóa ra là sự thật.

White Stripes chia tay

quảng cáo

Vào ngày 2 tháng 2011 năm XNUMX, bộ đôi chính thức thông báo rằng họ sẽ ngừng thu âm các sáng tác và biểu diễn dưới bút danh sáng tạo The White Stripes. Các nhạc sĩ quyết định duy trì danh tiếng tốt và kết thúc hoạt động của mình ở thời kỳ đỉnh cao của sự nổi tiếng.

Bài tiếp theo
Nastya Poleva: Tiểu sử của ca sĩ
T11 ngày 2020 tháng XNUMX năm XNUMX
Nastya Poleva là một ca sĩ nhạc rock của Liên Xô và Nga, đồng thời là thủ lĩnh của ban nhạc Nastya nổi tiếng. Giọng hát mạnh mẽ của Anastasia đã trở thành giọng nữ đầu tiên vang lên trên sân khấu nhạc rock vào đầu những năm 1980. Người biểu diễn đã đi một chặng đường dài. Ban đầu, cô mang đến cho người hâm mộ những bản nhạc nghiệp dư nặng ký. Nhưng theo thời gian, các tác phẩm của cô ấy đã mang âm hưởng chuyên nghiệp. Thời thơ ấu và tuổi trẻ […]
Nastya Poleva: Tiểu sử của ca sĩ