Perry Como (Perry Como): Tiểu sử của nghệ sĩ

Perry Como (tên thật Pierino Ronald Como) là một huyền thoại của làng nhạc thế giới và là một nghệ sĩ biểu diễn nổi tiếng. Ngôi sao truyền hình Mỹ, nổi tiếng với giọng nam trung mượt mà và có hồn. Trong hơn sáu thập kỷ, đĩa hát của ông đã bán được hơn 100 triệu bản.

quảng cáo

Tuổi thơ và tuổi trẻ Perry Como

Nhạc sĩ sinh ngày 18 tháng 1912 năm 12 tại thành phố Canonsburg (Pennsylvania). Cha mẹ di cư từ Ý sang Mỹ. Ngoài Perry, gia đình còn có thêm XNUMX người con.

Anh là đứa con thứ bảy. Trước khi bắt đầu sự nghiệp ca hát, nhạc sĩ đã phải làm nghề cắt tóc một thời gian dài.

Perry Como (Perry Como): Tiểu sử của nghệ sĩ
Perry Como (Perry Como): Tiểu sử của nghệ sĩ

Anh bắt đầu làm việc từ năm 11 tuổi. Buổi sáng cậu bé đi học rồi cắt tóc. Theo thời gian, anh mở tiệm làm tóc của riêng mình.

Tuy nhiên, bất chấp tài năng của người thợ làm tóc, nghệ sĩ lại thích hát hơn. Vài năm sau khi tốt nghiệp ra trường, Perry rời quê hương và lên đường chinh phục sân khấu lớn.

Sự nghiệp của Perry Como

Không mất nhiều thời gian để nghệ sĩ tương lai chứng tỏ mình có tài năng. Anh nhanh chóng giành được một vị trí trong dàn nhạc Freddie Carlone, nơi anh kiếm tiền bằng cách lưu diễn vùng Trung Tây. Ông đạt được thành công thực sự vào năm 1937 khi tham gia dàn nhạc của Ted Weems. Anh ấy đã được đưa vào chương trình radio Beat the Band của ban nhạc. 

Trong thời kỳ chiến tranh năm 1942, nhóm tan rã. Perry bắt đầu sự nghiệp solo của mình. Năm 1943, nhạc sĩ ký hợp đồng với RCA Records và sau đó tất cả các bản thu âm đều thuộc hãng này.

Các bản hit Long Ago và Far Away, I'm Gonna Love That Gal và If I Loved You của anh đã được nghe khắp các làn sóng radio trong thời kỳ đó. Nhờ bản ballad Till The End of Time, được biểu diễn năm 1945, nghệ sĩ đã nổi tiếng trên toàn thế giới.

Vào những năm 1950, Perry Como đã biểu diễn những bản hit như Catch a Falling Star và It's Impossible, And I Love You So. Chỉ trong một tuần vào những năm 1940, ca sĩ đã bán được 4 triệu đĩa. Vào những năm 1950, 11 đĩa đơn đã bán được hơn 1 triệu bản mỗi đĩa.

Buổi biểu diễn của nhạc sĩ đã thành công đáng kể nhờ Perry biết cách biến chúng thành những buổi biểu diễn nhỏ. Ngoài màn trình diễn đẹp mắt trong các sáng tác của mình, nghệ sĩ còn chú trọng đến sự mỉa mai và nhại lại khi hát. Vì vậy, Perry dần dần bắt đầu làm chủ được sự nghiệp của một người dẫn chương trình, nơi anh cũng thành công.

Buổi hòa nhạc cuối cùng của ca sĩ diễn ra vào năm 1994 tại Dublin. Khi đó, nhạc sĩ đã kỷ niệm 60 năm sự nghiệp ca hát.

Công việc của Perry Como trên truyền hình

Perry xuất hiện trong ba bộ phim vào những năm 1940. Nhưng thật không may, những vai diễn này ít đáng nhớ hơn. Tuy nhiên, vào năm 1948, nghệ sĩ đã xuất hiện lần đầu trên NBC trong chương trình The Chesterfield Supper Club.

Chương trình đã trở nên rất phổ biến. Và vào năm 1950, ông tổ chức chương trình riêng của mình, The Perry Como Show, trên CBS. Chương trình kéo dài 5 năm.

Trong suốt sự nghiệp truyền hình của mình, Perry Como đã tham gia một số lượng đáng kể các chương trình truyền hình, từ năm 1948 đến năm 1994. Ông được công nhận là nghệ sĩ được trả lương cao nhất trong thời đại của mình và được ghi vào Sách kỷ lục Guinness.

Nhạc sĩ đã được trao Giải thưởng Kennedy đặc biệt cho những thành tựu xuất sắc trong lĩnh vực nghệ thuật do Tổng thống Reagan trao tặng cho ông.

Perry Como (Perry Como): Tiểu sử của nghệ sĩ
Perry Como (Perry Como): Tiểu sử của nghệ sĩ

Cuộc sống cá nhân của Perry Como

Trong cuộc đời của nhạc sĩ Perry Como chỉ có một tình yêu lớn duy nhất mà ông đã chung sống 65 năm. Vợ ông tên là Roselle Beline. Cuộc gặp gỡ đầu tiên diễn ra vào năm 1929 tại một bữa tiệc sinh nhật.

Perry đang tổ chức sinh nhật lần thứ 17 của mình trong một chuyến dã ngoại. Và vào năm 1933, cặp đôi kết hôn, ngay sau khi cô gái tốt nghiệp ra trường.

Họ đã có với nhau ba đứa con. Năm 1940, hai vợ chồng có đứa con đầu lòng. Sau đó, nhạc sĩ đã nghỉ việc một thời gian để gần gũi và giúp đỡ vợ.

Vợ của nghệ sĩ qua đời ở tuổi 84. Nam ca sĩ bảo vệ gia đình khỏi việc kinh doanh show diễn. Theo ông, sự nghiệp nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân không nên gắn liền với nhau. Perry không cho phép các nhà báo chụp ảnh gia đình anh hoặc ngôi nhà họ sống.

Perry Como (Perry Como): Tiểu sử của nghệ sĩ
Perry Como (Perry Como): Tiểu sử của nghệ sĩ

Cái chết của Perry Como

Nhạc sĩ qua đời một tuần trước ngày sinh nhật của ông vào năm 2001. Lẽ ra ông đã 89 tuổi. Ca sĩ mắc bệnh Alzheimer trong vài năm. Theo gia đình, nhạc sĩ đã chết trong giấc ngủ. Lễ tang diễn ra ở Palm Beach, Florida.

Sau cái chết của Perry, một tượng đài đã được dựng lên ở Canonsburg, quê hương của ông. Sự sáng tạo kiến ​​​​trúc độc đáo này có nét đặc biệt riêng - nó hát. Bức tượng tái hiện những bản hit nổi tiếng của ca sĩ. Và trên tượng đài có một dòng chữ bằng tiếng Anh “To This Place God Has Brought Me” (“Chúa đã đưa tôi đến nơi này”).

Sự thật thú vị về Perry Como

Năm 1975, trong chuyến lưu diễn, nghệ sĩ được mời đến Cung điện Buckingham. Nhưng lời mời này không dành cho đội ngũ sáng tạo của anh ấy và anh ấy đã từ chối. Biết được lý do từ chối, đội của anh đã có một ngoại lệ, sau đó Perry đã chấp nhận lời mời.

Khi đến thăm Dublin, Perry đã đến thăm một tiệm làm tóc địa phương, nơi anh được những người chủ của cơ sở này mời. Tiệm cắt tóc được đặt tên là Como để vinh danh ông.

Một trong những sở thích của nghệ sĩ là chơi gôn. Ca sĩ dành thời gian rảnh rỗi cho hoạt động này.

quảng cáo

Bất chấp danh tiếng và thành công của ông, những người biết ông đều lưu ý rằng Perry là một người rất khiêm tốn. Anh ấy rất miễn cưỡng khi nói về những thành công của mình và cảm thấy xấu hổ vì sự chú ý quá mức đến tính cách của mình. Thành công chung của nhạc sĩ chưa bị nghệ sĩ nào vượt qua.

Bài tiếp theo
Rixton (Push Baby): Tiểu sử ban nhạc
Thứ năm 22 tháng 2021 năm XNUMX
Rixton là một nhóm nhạc pop nổi tiếng ở Anh. Nó được tạo ra vào năm 2012. Khi các chàng trai bước vào lĩnh vực âm nhạc, họ có cái tên Relics. Đĩa đơn nổi tiếng nhất của họ là Me and My Broken Heart, được nghe ở hầu hết các câu lạc bộ và địa điểm giải trí không chỉ ở Anh mà còn ở Châu Âu, […]
Rixton (Push Baby): Tiểu sử ban nhạc